CÂY ĐÈN KỲ LẠ
Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ - kheo trở về tịnh xá Kỳ
Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật
và bàn một vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ hôm ấy.
Câu chuyện mở đầu trong bữa tiệc là những lời sau đây do vua
A Xà Thế phát khởi:
-
- Các khanh! Quả nhơn rất bằng lòng và phấn khởi về
việc các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất trong buổi lễ cúng dường Phật và giáo
hội vừa rồi.
Hướng đôi mắt về phía đại thần Kỳ Bà, vua A Xà Thế nói tiếp:
-
- Kỳ Bà! Khanh ngồi nghĩ hộ quả nhơn xem còn có vật
gì đáng làm nữa để quả nhơn tận hiến tấc dạ chí thành lên đức Chí tôn và giáo hội
– những người tận tụy trong công việc giáo hóa chúng sinh nói chung, thân dân của
quả nhơn nói riêng, trở về với ánh sáng chân lý.
Đứng ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi đại thần Kỳ Bà thông thả
tiếp:
-
- Tâu Đại Vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và
y phục mà Đại vương đã dâng lên đức Chí Tôn và giáo hội, theo thiển ý của hạ thần
thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vì ánh sáng tượng
trưng cho trí tuệ, cho sự giác ngộ, ở đâu có ánh sáng thì ở đó bóng tối tan mất.
Cũng như ánh sáng Phật và giáo hội đến đâu thì ở đó si ám và tội lỗi đều tiêu sạch.
Ngu ý của hạ thần chỉ có bấy nhiêu, kính mong bệ hạ thẩm xét.
-
- Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý! Tiện đây
nhờ khanh thay quả nhơn sắm sửa cho thật nhiều đèn đuốc để tối nay dâng lên Phật
và giáo hội tại tịnh xá Kỳ Hoàn.
Đại thần Kỳ Bà vâng thuận. Buổi tiệc bắt đầu và tiếp diễn
trong tình thân mật giữa vua và các vị cận thần.
Chiều hôm ấy, trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành
khách gặp rất nhiều xe cộ, lính tráng, tấp nập khuân chở những thùng dầu, đèn
và những chiếc lồng đèn ngũ sắc rực rỡ. Hỏi thăm, bà lão hành khách biết đó lễ
vật của nhà vua đem cúng dường Phật và giáo hội.
Hình tường nghiêm trang của Phật và các thầy Tỳ kheo lại hiện
về trong óc bà. Bà vui hẳn lên và rất tán thành việc làm có ý nghĩa của nhà
vua. Và xét lại tự thân, thấy mình chưa làm được một công đức nào cho Phật và
giáo hôi, bà tự nghĩ mình phải sắm vật
phẩm để cúng dường mới được. Thò tay vào bị, bà lão moi ra vỏn vẹn chỉ có hai
tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong lòng khiến bà hoan hỉ đi ngay vào một
quán gần đấy…
-
- Thưa cậu! Làm ơn bán cho tôi hai tiền dầu thắp.
-
- Bà mà mua dầu làm gì? Sao không mua đồ ăn lại
mua dầu, nhà cửa đâu mà dầu với đèn!
-
- Thưa cậu! Tôi thường nghe các bậc hiền nhân
trong làng bảo: “Ngàn năm muôn thưở mới có một đức Phật ra đời; người nào có
nhiều phước duyên lắm mới gặp”. Hôm nay tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn
nào để dâng hiến lên Ngài. Điều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Nhơn tiện vua A Xà
Thế sửa soạn đèn đuốc để dâng lên Ngài và giáo hội, tuy nghèo khổ, tôi cũng xin
nguyện đem hai tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài.
Nghe
bà lão hành khách tỏ tấm lòng chân thiệt đối với Đấng Giác Ngộ, người chủ quán
nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: hai tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi
xin tặng bà ba muỗng nữa là năm, và cho bà mượn luôn vịt đèn nầy. Mong bà nhận
cho.
Sau
khi cám ơn người chủ quán, bà lão ra về với bao niềm hoan hỷ vì được người khác
biểu đồng tình và giúp mình trong công việc phước thiện.
Trời
chưa tối hẳn, những cây đèn xinh xắn, lỗng lẫy của nhà vua đã được những đội thị
vệ thắp sáng. Tịnh xá Kỳ Hoàn như vui nhộn hẳn lên. Đó đây vang lừng những điệu
nhạc dịu dàng, nhịp nhàng với những lời ca ngợi của những cận thần thay nhà vua
tán thán công đức của Phật và giáo hội. Từng đoàn người lũ lượt đi dự lễ, đông
như trẩy hội. Bà lão hành khách cũng tiến mau về tịnh xá và dừng bước trước những
hoa đăng rực rỡ, bà vội vàng đến rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay
tim. Vừa mồi ánh sáng bà vừa phát nguyện: “Cúng dường ánh sáng này lên Đức thế
tôn và giáo hội, con chỉ cầu mong làm sao con cũng sẽ được trí tuệ sáng suốt
như các đấng giác ngộ trong mười phương”. Bà lại nghĩ: “Dầu ít như vậy có sáng
cũng chỉ đến nửa đêm là cùng”. Nhưng mạnh dạn bà thầm nguyện: “Nếu quả thật sau
này tôi sẽ được giác ngộ như lòng tôi mong muốn hôm nay, thì số dầu ít ỏi này
cũng làm cho cây đèn sáng mãi không tắt”.
Sau
khi treo cây đèn lên một cành cây, bà lão hành khách đi thẳng vào Tịnh xá, chí
thành Lễ Phật rồi ra về…
Số
đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim,
nhưng ít cây được ánh sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật
cháy…
Duy
cây đèn của bà lão hành khách thì ánh sáng nổi bật hơn muôn vạn cây đèn khác và
cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn khôn hao.
“Này
đệ tử! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ”, đức Phật dạy với
ngài Mục Kiền Liên như thế.
Tôn
giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật, Nhưng đến cây đèn của bà lão hành khách,
thì ba lần tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, tôn giả
cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần công diệu lực của mình quạt hắt vào đèn
nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung
quanh đều ngạc nhiên cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.
Ngay
lúc ấy, đức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:
“Thôi!
Đệ tử hãy thôi. Dù cho đệ tử có vận dụng cả thần lực của đệ tử cũng không thể
nào làm tắt được cây đèn nầy, vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong
tương lai”.
Lời
dạy ấy của đức Phật đã làm cho nhiều Đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người
đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường
cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khách!
Câu
chuyện đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho với đại thần Tỳ Bà đến để thuật lại
câu chuyện và hỏi:
- - Kỳ Bà! Như khanh đã biết được quả nhân làm rất
nhiều công đức và cúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy đức Thế Tôn dạy gì
về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khách chỉ cúng dường có một cây
đèn lại được Ngài ký thọ nghĩa là sao?
Đại
thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.
-
- Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm
hiểu những khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ khác về đức Thế Tôn.
Đôi
mắt của đại thần Kỳ Bà bỗng sáng lên và khiêm tốn trả lời câu hỏi của nhà vua:
-
- Tâu đại vương! Theo những điều mà hạ thần được
phỏng văn từ miệng của những người thân cận các thầy Tỳ kheo và cộng thêm sự
suy luận của hạ thần thì tuy đại vương cúng dường rất nhiều phẩm vật, song tâm
ý không được chí thành cho lắm và có lẽ đại vương không phát đại nguyện; cho
nên tuy có công đức mà không làm sao bằng công đức của bà lão hành khất chỉ
cúng dường một cây đèn nhưng đó là cả một tấm lòng chí thiết, một dạ chí thành
đối với những đấng Giác ngộ và nhất là lời thiện nguyện cao rộng của bà ấy.
Nghe
đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỉ về động cơ của sự cúng dường của mình và của bà
lão hành khất, sau một hồi suy nghĩ và xét lại bản tâm, vua A Xà Thế liền cởi mở
được tất cả những điều thắc mắc.
“Công
đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật, mà căn cứ nơi sự thành tâm”.
No comments:
Post a Comment