8/30/2013

CÁCH XỬ THẾ NGƯỜI XƯA



Xưa, có một chú học trò được dịp lên phố chơi. Nhằm ngày chợ phiên, một vụ mất cắp xảy ra tại quán trọ, chú học trò liền bị quan huyện bắt nhốt vì người ta ngờ chú là thủ phạm.
Sau khi trải qua những thủ tục tra hỏi phiền phức, quan huyện tìm ra thủ phạm chính, chú học trò được trắng án ra về.
Khi về làng, gặp lại vị thầy dạy học, chú nhỏ tức tưởi kể lại tự sự, bộc bạch nỗi hàm oan của mình.
Ông thầy im lặng nghe xong câu chuyện, nghiêm nghị ra lệnh đánh đệ tử mười roi phạt. Đương sự rất ngạc nhiên, nhưng không dám cãi lời thầy, riu ríu leo lên bộ phản nằm chờ trận đòn mà lòng hoang mang vô kể.
Các bạn chú thấy thế, ngạc nhiên thưa:
-          Thưa thầy, trò này vô tội sao lại bị đòn?
Ông thầy từ tốn giải thích:
-          Đành rằng nó vô tội, nhưng tại sao giữa phố chợ đông đảo chỉ mình nó bị tình nghi là kẻ cắp? Ta đánh đây là phạt cái tội nó có bộ vó của thằng ăn cắp để cho người ta nghi ngờ. Nếu nó không chỉnh đốn tư cách lại, ta e rằng nó sẽ bị hàm oan nhiều lần nữa.

8/21/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - BA CÂU HỎI CỦA ĐỨC VUA


BA CÂU HỎI CỦA ĐỨC VUA
Thuở xưa, có một vị vua thuộc vào hàng minh quân, ngài thương dân như con đẻ, nhưng dù là minh quân, ngài vẫn không sao tránh được một ít lỗi lầm đáng tiếc.
Lúc tuổi đã cao, nhà vua nghĩ rằng giá mà thời niên thiếu, ngài được các bậc hiền tài chỉ dẫn cho ba điều thắc mắc sau đây thì có lẽ ngài sẽ tránh được rất nhiều khuyết điểm.Đó là những nghi vấn sau:
1.       Thời gian nào là quan trọng nhất của một công việc?
2.       Nhân vật nào cần chú ý nhất đối với ta?
3.       Công việc nào là tối quan trọng và khẩn thiết nhất?
Đức vua cho nêu ba câu hỏi trên trước hoàng thành, truyền rao khắp các thị trấn, làng mạc … và hứa sẽ trọng thưởng cho người nào có lời giải đáp khôn ngoan nhất. Bố cáo vừa được niêm yết thì các bậc hiền tài tuấn kiệt, thạc học minh triết lũ lượt kéo nhau về kinh thành, mỗi người đưa ra một ý kiến. Triều đình phải thành lập một ban giám khảo, các quan thị làng làm việc tận lực suốt hai tháng liền mới đúc kết các khuynh hướng thiên sai vạn biệt thành một vài trường phái nhất trí và dâng lên đức vua, vị chánh chủ khảo tối cao cả nước.
Đáp lại câu hỏi đầu tiên, có người bảo rằng: muốn biết thời gian nào là quant trọng nhất của một công việc, người ta phải thiết lập chương trình, kế hoạch, thời dụng biểu hẳn hoi. Xong, ta sẽ thực hành diễn tiến công việc theo những thời điểm quy định sẵn đó…
Nhưng ý kiến này liền bị nhà vua bác bỏ vì không có ai có thể tiên đoán được những điều sẽ xảy ra mà lập thành một khuôn mẫu sẵn, công việc đòi hỏi phải linh động mới được.
Có trường phái lại cho rằng một người không thể khôn ngoan hơn tập thể. Đức vua nên thành lập một nội các gồm nhiều đại biểu để soạn thảo kế hoạch trước khi thi hành và làm theo quyết định chung.
Một trường phái khác lại đề nghị đức vua cần thành lập một hội đồng tiên tri để xủ quẻ trước khi thực thi một công việc…
Như thế, đại để mọi người đồng ý với nhau rằng: Thời gian quan trọng nhất của một công việc là thời gian chuẩn bị, suy nghĩ về công việc ấy.
Về câu hỏi thứ hai, người ta càng bất đồng ý kiến với nhau: Thượng Đế, Đức vua, quan tể tướng, các giáo sĩ, bốc sư… được đề nghị là những nhân vật quan trọng nhất.
Câu hỏi thứ ba cũng được giải đáp trong một tình trạng tương tự - công việc nào phải được xem là quan trọng nhất – thưa: đó là việc nước, việc nhà, việc ăn, việc mặc, học hành, giao tế, tâm linh, hành chánh, kinh tế, quân sự hay tôn giáo… các đề mục đều được các khối óc khôn ngoan tinh tế nhất đề cập tới.
Và vị chánh chủ khảo tức là nhà vua ấy không chấp nhận câu giải đáp nào cả. Nhiều năm trôi qua, ba câu hỏi dần dần rơi vào quên lãng… Cho đến một hôm, nhà vua nghe đồn rằng trên đỉnh núi phủ nhiều mây nọ, có một đạo sĩ coi là bậc giác ngộ, nhưng vị chân tu này không bao giờ chịu hạ sơn để giao tiếp với các nhà quyền quí. Tiếng đồn về đạo sĩ khiến nhà vua chú ý và một hôm, ngài quyết định cải dạng thường dân đến tham vấn vị ẩn  tu.
Đến nơi, nhà vua gặp đạo sĩ đang cuốc đất. Vua vái chào và nêu lên ba câu hỏi. Đạo sĩ chỉ mỉm cười, đưa tay vỗ nhẹ nhà vua rồi tiếp tục công việc. Đã được báo trước về tánh khí lạ lùng của vị đạo sĩ , nhà vua không nản lòng, ngồi xuống một tảng đá chờ đợi. Hồi lâu, buồn tay, đức vua mời đạo sĩ nghỉ tay, trao cuốc cho nhà vua làm giúp. Nhiều giờ trôi qua, đức vua vẫn xới đất, còn đạo sĩ thì nhổ cỏ quanh quẩn bên lều tranh. Khi đôi tay vương giả bắt đầu chai phồng, đức vua ngừng cuốc nghỉ mệt giây lâu và nói với đạo sĩ:
-          Tôi từ xa lặn lội đến đây, cầu Thầy chỉ giáo cho ba điều nghi vấn. Nếu Thầy biết thì xin vui lòng chỉ dẫn cho. Bằng không cũng xin cho tôi biết để tôi trở về kẻo tối.
Đạo sĩ mỉm cười định nói câu gì đó, thì chợt cả hai người cùng nghe tiếng chân chạy dồn dập. Nhà tu bảo đức vua:
-          Bác xem ai đến kìa!
Nhà vua quay lại thì thấy một người vừa ngã quỵ xuống đất, toàn thân nhuộm máu. Hai người già không ai bảo ai, đều hối hả đến bên người bị nạn. Nạn nhân chỉ còn thở thoi thóp. Vua phụ lực với đạo sĩ băng bó các vết thương… Hai người im lặng làm việc cho đến lúc ngừng tay thì mặt trời đã lặn ở đỉnh núi bên kia. Đưa nạn nhân vào thảo am đặt người bệnh trên chiếc chõng tre độc nhất của  căn lều, họ chia nhau mấy củ khoai rừng luộc và vì quá mệt, đức vua ngả mình xuống nền đất thiếp đi.
Sáng hôm sau, khi nhà vua giật mình thức giấc thì nắng đã nhuộm hồng chiếc thảo am, và chim rừng kêu rộn rã. Đức vua phải bàng hoàng hồi lâu, mới nhớ rõ mình đang ở đâu và làm gì… Đạo sĩ đã đi làm vườn, sau khi đặt một rổ khoai luộc bên cạnh ông khách. Trên chõng tre, nạn nhân đã hồi tỉnh và đang nhìn đức vua với cặp mắt long lanh. Đức vua đến bên người bệnh, đặt một bàn tay lên vầng trán nóng như lửa của anh ta và cất tiếng hỏi thăm bệnh tình… Nạn nhân bỗng òa lên khóc:
-          Xin bệ hạ tha tội cho ngu thần…
Vô cùng ngạc nhiên, đức vua hỏi:
-          Khanh là ai mà lại biết Trẫm?
-          Bệ hạ không biết thần đâu! Hạ thần chính là em trai của võ tướng Trần Đoàn, người bị bệ hạ giết oan trong mùa thu năm Tân Dậu. Thần đã thề trước linh cữu anh là sẽ giết bệ hạ để báo thù… Biết bệ hạ lên núi này, thần mai phục sẵn. Không ngờ, đợi đến tối mà bệ hạ vẫn chưa xuống núi, thần liền đi tìm… và bị trợt chân té xuống triền núi. Nếu không nhờ bệ hạ ra tay cứu chữa thì có lẽ thần đã mất mạng. Từ đây oan cừu xin giải hết… Thần cúi mong bệ hạ tha tội chết cho thần.
-          Câu chuyện đáng tiếc năm xưa đã làm ta hối tiếc không nguôi… Nhưng việc đã dĩ lỡ rồi Trẩm không biết tính sao. Bây giờ chẳng những Trẩm sẽ tha tội cho khanh  mà Trẩm còn phục hồi chức tước và chu cấp cho gia đình Trần Đoàn nữa. Khanh hãy yên tâm mà tịnh dưỡng đi.
Đức vua ra hiệu gọi vệ sĩ đến, cho khiêng nạn nhân xuống núi và vời ngự y chăm sóc vết thương. Sắp xếp đâu đó xong xuôi, vua đi tìm đạo sĩ. Nhà tu đang lúi húi trồng rau trên luống đất mới cuốc hôm qua. Đức vua ngỏ ý cáo từ và nhắc lại ba câu hỏi:
-          Xin đạo sĩ giải đáp cho.
Nhà tu mỉm cười:
-          Bần đạo đã trả lời cho bệ hạ rồi.
Đức vua ngạc nhiên:
-          Thưa, hồi nào đâu?
-          Ngay lúc bệ hạ vừa nêu câu hỏi.
-          !??
-          Này nhé, thời gian nào là thời gian quan trọng nhất, đó là lúc bệ hạ cuốc đất giúp bần đạo.Nếu thiếu khoảng thời gian này thì bệ hạ đã chết về tay anh chàng kia rồi nhé. Nhân vật quan trọng nhất chính là bần đạo đây, quan trọng đến mức bệ hạ phải trèo non lội suối đi tìm, có phải không? Và câu thứ ba: “Công việc nào cần thiết nhất?” – Thưa, đó là cuốc đất, việc mà hai chúng ta đã làm ngày hôm qua…
-          Rồi sau đó khi chàng thanh niên xuất hiện thì anh ta biến thành nhân vật quan trọng nhất, công việc cần thiết nhất là cấp cứu cho anh ta, và thời gian đó quan trọng nhất… Có phải thế không nào?
Nhà vua cúi đầu ngẫm nghĩ giây lâu, cất tiếng:
-          Thưa đạo sĩ, Trẩm đã hiểu. Thời gian quan trọng nhất là thời gian hiện tại. Nhân vật cần thiết nhất là người mà ta cần gặp gỡ trong hiện tại, và công việc khẩn thiết nhất, cũng là công việc trong hiện tại… Quá khứ là những điều đã qua vĩnh viễn, vị lai chỉ là những ảo tưởng mơ hồ… Chỉ có khoảnh khắc ngắn ngủi trong hiện tại là quí nhất mà thôi.
-          Những điều cần làm nhất là giúp đỡ những người chung quanh ngay trước mắt ta trong giây phút ngắn ngủi quí giá đó… Thưa, có phải thế không ạ?
Đạo sĩ mỉm cười, và nụ cười đó thay lời tống biệt, đưa nhà vua xuống núi, nơi mà triều đình và thần dân đang chờ đón ngài.

8/15/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - TÂM NHÌN


TÂM NHÌN
Xưa có một vị Tỳ kheo, cất một cái am trên một sườn núi vắng vẻ để tu tập thiền định. Dưới chân núi là một con sông, có một con đò qua lại. Vị Tỳ kheo muốn hạ sơn hóa đạo phải đi qua chuyến đò ấy. Kẻ đưa đò là một bà lão trên 50 tuổi, còn khỏe mạnh.
Một hôm, khách qua sông ngạc nhiên thấy kẻ đưa đò không phải là bà lão nữa, mà là một thiếu nữ rất duyên dáng đẹp đẽ, dung nghi trang trọng, cử chỉ thanh cao. Hỏi ra mới hay rằng, người con gái ấy không biết người ở xứ nào, một ngày nọ, tới xin bà lão ở trọ và giúp bà một tay đưa khách qua sông. Thấy nàng xinh đẹp, lại đoan trang, bà lão vô cùng thương mến.
Từ đó, khách sang thăm thầy Tỳ kheo ngoạn cảnh mỗi ngày một đông. Có lẽ ai cũng thích qua đò để được ngắm dung nhan giai nhân và cái vẻ thướt tha mềm mại của tay ngà đưa mái chèo nhẹ trên mặt nước. Thầy Tỳ kheo thỉnh thoảng có việc phải hạ sơn, cũng qua đò. Nhưng có điều lạ, khi qua bên kia sông rồi, khách chỉ trả có một tiền, cô gái đòi thầy phải trả hai tiền. Vị Tỳ kheo ngạc nhiên hỏi vì sao lấy đắt hơn. Cô gái cười nói: Mọi người qua đò chỉ có qua đò thôi. Còn thầy, ngoài việc qua đò, thầy còn ngắm tôi nữa nên phải trả gấp đôi. Không lý cãi cọ lôi thôi với cô gái, vị Tỳ kheo đành phải chịu trả cho cô hai tiền.
Lần sau, có việc phải xuống núi. Vị Tỳ kheo bước xuống đò không dám nhìn cô gái mà úp mặt xuống lòng đó. Đến bến, mọi người lên trả tiền đò, đến lượt thầy, cô gái bắt trả gấp bốn lần. Thầy Tỳ kheo hỏi:  Lần trước, cô bảo tôi qua đò nhìn cô nên phải trả gấp hai, nay tôi không hề nhìn cô mà chỉ úp mặt xuống đò, tại sao cô đòi gấp bốn lần? Cô gái nói rất nghiêm trang: “Mấy lần trước, thầy chỉ dùng mắt dùng nơi mặt và bên ngoài của tôi. Hôm nay thầy dùng tâm và nhìn hết toàn thân bên trong của tôi nên phải trả gấp bốn lần”. Nghe xong, thầy Tỳ kheo phát lên cười và hình như có sở ngộ. Ngoảnh lại cô gái đò đã biến đi đâu mất. Từ đó, chỉ còn bà lão đưa khách sang sông.

8/12/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - ĐỐI THOẠI THIỀN


ĐỐI THOẠI THIỀN

Các Thiền sư huấn luyện các Chú Tiểu tự diễn tả ý nghĩ của các chú. Hai ngôi đền Thiền, mỗi bên có một Chú Tiểu hầu cận. Một chú buổi sáng đi hái rau, gặp chú kia giữa đường.

Chú thứ nhất hỏi:

-          Anh đi mô rứa?

Chú kia đáp:

-          Ta đi mô bàn chân ta bước.

Câu trả lời làm chú thứ nhất rối óc, chú về cầu thầy trợ giúp. Thầy chú bảo: Sáng mai, khi con gặp anh bạn nhỏ của con, hãy hỏi hắn lại câu đó. Hắn sẽ trả lời câu đó, rồi con hỏi tiếp: “Giả như anh không có chân thì anh đi mô?” Hắn sẽ chịu ngay.

Sáng hôm sau khi hai chú gặp nhau. Chú thứ nhất hỏi:

-          Anh đi mô rứa?

Chú kia đáp:

-          Ta đi nơi mô gió thổi.

Câu trả lời này làm bù đầu chú thứ nhất, chú kia đã đánh bại cả bậc thầy chú. Ông thầy lại mớm ý: “Hãy hỏi hắn đi mô nếu không có gió?”

Ngày hôm sau, hai chú lại gặp nhau lần thứ ba. Chú thứ nhất hỏi:

-          Anh đi mô rứa?

Chú kia đáp:

-          Ta đang đi chợ mua rau.

8/07/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - CON DAO TRONG TÂM


CON DAO TRONG TÂM

Ngày xưa ở thành Xá Vệ nước Ấn Độ , đức Phật đến hóa độ cho một gia đình kia, hai vợ chồng đều có tánh tham lam độc ác, không biết tôn trọng đạo đức. Ngài liền hóa một vị đạo nhân, mang bình bát đến khất thực. Lúc ấy người chồng đi vắng, người vợ ở nhà, thấy vị đạo nhân vào liền mắng chửi ầm lên. Vị đạo nhân hiền từ nói: Tôi là người tu hành, chỉ xin ăn mà tự sống. Lòng chỉ mong gia chủ cho bát cơm để đỡ lòng, cớ sao lại mắng chửi đôi đủ điều thậm tệ như vậy. Người vợ tức giận hết ngược lên, thì vừa người chồng về, trong tay sẵn cầm con dao bén, chẳng nói chẳng rằng, người chồng lặng lẽ xông tới, định chém vị đạo sĩ. Bỗng một bức thành bằng pha lê hiện lên, bao bọc người đạo sĩ, bức thành trong sáng, kiên cố, không có cửa, người chồng đến xô đập, đâm chém đủ cách cũng không sao chuyển được. Người chồng liền nói: Ông hãy mở mau cho tôi vào với. Vị đạo sĩ trả lời: Được, nhưng ông hãy quăng con dao bén đi đã. Người chồng tự nghĩ: Mình to lớn thế này, còn người đạo sĩ bé nhỏ thế kia, mình dùng hai tay không cũng đủ giết chết vị ấy trong giây lát. Nghĩ đoạn, liền quăng con dao bén đi xa, nhưng sao bức thành pha lê vẫn nguyên như cũ, người chồng tức giận hét lên: Tôi đã quăng con dao bén đi rồi sao ông không chịu mở cửa cho tôi vào. Vị đạo sĩ đáp: Không, tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao bén trong tâm ông kia mà. Người chồng giật mình kinh sợ, nhận thấy vị đạo sĩ thấu hiểu tâm lý thầm kín của mình, nên đã bớt độc ác, cúi đầu lạy tạ, ăn năn hối lỗi. Bức thành pha lê kiên cố ấy bỗng biến mất, vị đạo sĩ hiện thành đức Phật, phóng muôn ánh hào quang chói sáng rực rỡ một phương trời, và ngay khi đó đức Phật thuyết pháp để hóa độ cho hai vợ chồng người ấy.

8/06/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - ĐƯỜNG LẦY


ĐƯỜNG LẦY

Có hai nhà sư cùng thong dong bước xuống một con đường lầy. Cơn mưa nặng hạt vẫn còn rơi. Đến khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh xắn trong chiếc áo Kimono và chiếc khăn quàng cổ bằng lụa, đang đứng bên lề đường vì không thể băng qua ngã tư đường lầy được. Lập tức một nhà sư bảo: “Đi nào, cô bé” tức khắc đưa tay nhấc bổng cô gái lên và đưa qua quãng đường lầy.
Nhà sư bạn của anh ta, từ đó không buồn nói một tiếng nào, cho đến khi cả hai dừng lại ở một ngôi chùa. Rồi không còn chịu đựng được nữa, nhà sư bạn lên tiếng nói với anh ta:
-          Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là với những người đàn bà trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại như vậy?
Nhà sư mỉm cười:
-          Tôi đã bỏ nàng từ chỗ đó rồi! Anh còn mang nàng theo đấy sao?

8/02/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - CÂY ĐÈN KỲ LẠ


CÂY ĐÈN KỲ LẠ

Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ - kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật và bàn một vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ hôm ấy.
Câu chuyện mở đầu trong bữa tiệc là những lời sau đây do vua A Xà Thế phát khởi:
-          - Các khanh! Quả nhơn rất bằng lòng và phấn khởi về việc các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất trong buổi lễ cúng dường Phật và giáo hội vừa rồi. 
Hướng đôi mắt về phía đại thần Kỳ Bà, vua A Xà Thế nói tiếp:
-          - Kỳ Bà! Khanh ngồi nghĩ hộ quả nhơn xem còn có vật gì đáng làm nữa để quả nhơn tận hiến tấc dạ chí thành lên đức Chí tôn và giáo hội – những người tận tụy trong công việc giáo hóa chúng sinh nói chung, thân dân của quả nhơn nói riêng, trở về với ánh sáng chân lý. 
Đứng ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi đại thần Kỳ Bà thông thả tiếp:
-          - Tâu Đại Vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Đại vương đã dâng lên đức Chí Tôn và giáo hội, theo thiển ý của hạ thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vì ánh sáng tượng trưng cho trí tuệ, cho sự giác ngộ, ở đâu có ánh sáng thì ở đó bóng tối tan mất. Cũng như ánh sáng Phật và giáo hội đến đâu thì ở đó si ám và tội lỗi đều tiêu sạch. Ngu ý của hạ thần chỉ có bấy nhiêu, kính mong bệ hạ thẩm xét. 
-          - Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý! Tiện đây nhờ khanh thay quả nhơn sắm sửa cho thật nhiều đèn đuốc để tối nay dâng lên Phật và giáo hội tại tịnh xá Kỳ Hoàn. 
Đại thần Kỳ Bà vâng thuận. Buổi tiệc bắt đầu và tiếp diễn trong tình thân mật giữa vua và các vị cận thần.
Chiều hôm ấy, trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành khách gặp rất nhiều xe cộ, lính tráng, tấp nập khuân chở những thùng dầu, đèn và những chiếc lồng đèn ngũ sắc rực rỡ. Hỏi thăm, bà lão hành khách biết đó lễ vật của nhà vua đem cúng dường Phật và giáo hội.
Hình tường nghiêm trang của Phật và các thầy Tỳ kheo lại hiện về trong óc bà. Bà vui hẳn lên và rất tán thành việc làm có ý nghĩa của nhà vua. Và xét lại tự thân, thấy mình chưa làm được một công đức nào cho Phật và giáo hôi, bà tự  nghĩ mình phải sắm vật phẩm để cúng dường mới được. Thò tay vào bị, bà lão moi ra vỏn vẹn chỉ có hai tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong lòng khiến bà hoan hỉ đi ngay vào một quán gần đấy…
-          - Thưa cậu! Làm ơn bán cho tôi hai tiền dầu thắp.
-          - Bà mà mua dầu làm gì? Sao không mua đồ ăn lại mua dầu, nhà cửa đâu mà dầu với đèn!
-          - Thưa cậu! Tôi thường nghe các bậc hiền nhân trong làng bảo: “Ngàn năm muôn thưở mới có một đức Phật ra đời; người nào có nhiều phước duyên lắm mới gặp”. Hôm nay tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng hiến lên Ngài. Điều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Nhơn tiện vua A Xà Thế sửa soạn đèn đuốc để dâng lên Ngài và giáo hội, tuy nghèo khổ, tôi cũng xin nguyện đem hai tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài. 
Nghe bà lão hành khách tỏ tấm lòng chân thiệt đối với Đấng Giác Ngộ, người chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: hai tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng bà ba muỗng nữa là năm, và cho bà mượn luôn vịt đèn nầy. Mong bà nhận cho.
Sau khi cám ơn người chủ quán, bà lão ra về với bao niềm hoan hỷ vì được người khác biểu đồng tình và giúp mình trong công việc phước thiện.
Trời chưa tối hẳn, những cây đèn xinh xắn, lỗng lẫy của nhà vua đã được những đội thị vệ thắp sáng. Tịnh xá Kỳ Hoàn như vui nhộn hẳn lên. Đó đây vang lừng những điệu nhạc dịu dàng, nhịp nhàng với những lời ca ngợi của những cận thần thay nhà vua tán thán công đức của Phật và giáo hội. Từng đoàn người lũ lượt đi dự lễ, đông như trẩy hội. Bà lão hành khách cũng tiến mau về tịnh xá và dừng bước trước những hoa đăng rực rỡ, bà vội vàng đến rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay tim. Vừa mồi ánh sáng bà vừa phát nguyện: “Cúng dường ánh sáng này lên Đức thế tôn và giáo hội, con chỉ cầu mong làm sao con cũng sẽ được trí tuệ sáng suốt như các đấng giác ngộ trong mười phương”. Bà lại nghĩ: “Dầu ít như vậy có sáng cũng chỉ đến nửa đêm là cùng”. Nhưng mạnh dạn bà thầm nguyện: “Nếu quả thật sau này tôi sẽ được giác ngộ như lòng tôi mong muốn hôm nay, thì số dầu ít ỏi này cũng làm cho cây đèn sáng mãi không tắt”.
Sau khi treo cây đèn lên một cành cây, bà lão hành khách đi thẳng vào Tịnh xá, chí thành Lễ Phật rồi ra về…
Số đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim, nhưng ít cây được ánh sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật cháy…
Duy cây đèn của bà lão hành khách thì ánh sáng nổi bật hơn muôn vạn cây đèn khác và cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn khôn hao.
“Này đệ tử! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ”, đức Phật dạy với ngài Mục Kiền Liên như thế.
Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật, Nhưng đến cây đèn của bà lão hành khách, thì ba lần tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, tôn giả cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần công diệu lực của mình quạt hắt vào đèn nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung quanh đều ngạc nhiên cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.
Ngay lúc ấy, đức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:
“Thôi! Đệ tử hãy thôi. Dù cho đệ tử có vận dụng cả thần lực của đệ tử cũng không thể nào làm tắt được cây đèn nầy, vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong tương lai”.
Lời dạy ấy của đức Phật đã làm cho nhiều Đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khách!
Câu chuyện đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho với đại thần Tỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi:
-         -  Kỳ Bà! Như khanh đã biết được quả nhân làm rất nhiều công đức và cúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy đức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khách chỉ cúng dường có một cây đèn lại được Ngài ký thọ nghĩa là sao?
Đại thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.
-          - Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm hiểu những khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ khác về đức Thế Tôn. 
Đôi mắt của đại thần Kỳ Bà bỗng sáng lên và khiêm tốn trả lời câu hỏi của nhà vua:
-          - Tâu đại vương! Theo những điều mà hạ thần được phỏng văn từ miệng của những người thân cận các thầy Tỳ kheo và cộng thêm sự suy luận của hạ thần thì tuy đại vương cúng dường rất nhiều phẩm vật, song tâm ý không được chí thành cho lắm và có lẽ đại vương không phát đại nguyện; cho nên tuy có công đức mà không làm sao bằng công đức của bà lão hành khất chỉ cúng dường một cây đèn nhưng đó là cả một tấm lòng chí thiết, một dạ chí thành đối với những đấng Giác ngộ và nhất là lời thiện nguyện cao rộng của bà ấy. 
Nghe đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỉ về động cơ của sự cúng dường của mình và của bà lão hành khất, sau một hồi suy nghĩ và xét lại bản tâm, vua A Xà Thế liền cởi mở được tất cả những điều thắc mắc.
“Công đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật, mà căn cứ nơi sự thành tâm”.



7/29/2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT GIÁO - BÀ CHÚA XỨ


BÀ CHÚA XỨ


Thưở xưa, có một anh chàng xấu xí, con nhà nghèo, thất học, phải sinh sống bằng nghề khuân vác mướn ngoài chợ. Người ta gọi anh bằng “Thằng Bu”.

Bu làm việc siêng năng, giỏi giắn, nên cuộc sống của anh không lấy gì làm chật vật cho lắm. Có điều anh rất buồn, chung quanh chẳng ai coi trọng, nể vị anh hết. Cũng như hầu hết mọi người, anh cũng thèm thuồng quyền uy, lòng ái mộ, khát ngưỡng của đồng loại. Mặt mũi anh đã khống thuộc loại đẹp trai, anh lại không có một làn hơi thiên phú để ca vọng cổ hay tân nhạc nên anh không thể tiến thân bằng con đường văn nghệ. Anh lại tứ cố vô thân, không tiền của nên khó mà mua dan vọng chức tước. Chữ nghĩa thì lại chẳng bằng ai… Vậy thì phải làm cách nào cho thiên hạ ngán mình đây? Suy nghĩ suốt ngày đêm, chàng Bu chợt nảy ra một sáng kiến. Một hôm, sau vài ly ba xi đế, Bu đến ngồi trước miễu bà Chúa Xứ, một vị thần không được thiêng cho lắm, nên nhang tàn khói lạnh, mỗi năm chỉ được người ta cũng cho một lần.

Bu đến trước cửa miễu, ngồi lắc lư, ợ ngáp liên hồi… Ban đầu chỉ có bọn trẻ con tụ tập xung quanh anh, sau đó có các bà con vô công rồi nghề, dần dần có đến cả hội đồng bô lão của làng nữa. Người ta nhìn nhau thì thầm: “Bà về! Bà về!”.

Vài mụ đàn bà góp ý, vàng hương hoa quả được mang đến, và chàng Bu nghiễm nhiên thành cái xác của bà Chúa Xứ. Từ đó, Bu không còn phải đi khuân thuê vác mướn nữa, người ta gọi anh bằng “Bà” bằng “Ngài” xúm xít cười vả lả để đón rước những lời nũng nịu, ỏng ẹo thoát ra từ đôi môi xám xịt của Bu. Anh mặc áo lụa, quần sa-teng trắng, đi hài cườm, thoa son phấn và đồ trang sức.

Một tháng sau, Bu đã có vô số người ái mộ. Những kẻ trước kia chỉ dòm Bu bằng nửa con mắt, bây giờ lại kính cẩn lễ bãi, đón nhận từng mệnh lệnh của anh. Người ta đến xin bùa phép của anh để mua may bán đắt, để được sanh con trai, con gái, đánh đề, đánh bạc, đua ngựa, đá gà v.v… và v.v…

Bởi vì Phật và chư vị Bồ Tát thường ít khi chịu khó chiều lòng những tham vọng ấy của chúng sanh, thánh thần thì bận thưởng thiện phạt ác, ma quỷ thù đòi ăn hối lộ… Duy có Bu là không đòi hỏi gì hết, ngoài việc ước mong được thiên hạ chiều chuộng, tâng bốc, vuốt ve lòng tự ái của mình.

Ba tháng trôi qua… những cuộc lên đồng, cầu đảo bất kể ngày đêm đã khiến Bu xuống sắc rõ rệt. Lớp son phấn dầy cộm không che khuất đôi mắt đầy quầng đen. Càng đông người tín mộ, anh càng phải lên đồng thật xuất sắc. Anh không còn đủ thì giờ để ăn uống ngủ nghỉ. Những lúc mệt quá, anh cũng muốn nghỉ ngơi để trở lại đời sống bình thường của anh.

Nhưng lúc ấy thì phải trở lại chấp nhận cái bản thân tầm thường thấp kém của anh Bu khuân thuê vác mướn, một điều mà anh muốn chối bỏ. Anh phải chịu đựng những ánh mắt lạnh nhạt, khinh bỉ… của người chung quanh, người ta sẽ lại gọi anh bằng “thằng”, bằng “mày”. Vì thế, dù mệt mỏi, anh phải đồng hóa mình với bà Chúa Xứ, một nhân vật do dân cư trong vùng lập ra và tôn thờ, chỉ ăn hương, uống hoa, sống bằng giọng đàn tiếng địch, cùng lời xưng tụng của người chung quanh.


Lời bàn:

Số phận của anh chàng Bu này sẽ ra sao? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nơi anh. Nếu Bu khám phá ra rằng chính mình là nạn nhân của trò chơi lên đồng ấy, rằng sau những lúc trà thiu rượu nhạt… anh cũng phải trở về đối mặt với con người của anh, một anh Bu tầm thường, vô danh tiểu tốt. Nếu anh nhận thấy rằng, anh đang bày trò điên loạn; trong cảnh giới cuồng điên đó anh đã được sự tán tụng của người điên khác; và nhất là những tham vọng hão huyền đó cũng chẳng thú vị gì cho lắm, thì tại sao anh không trở về với anh Bu khuân vác thường ngày? Dù không được nể vì kính trọng của thiên hạ, ít ra anh cũng có cái thế giới tỉnh táo chân thật của một con người tầm thường và bình thường.

Mặt khác, nếu anh không thể chấp nhận con người chân thật của mình thì anh cứ bám lấy cái vỏ của bà Chúa Xứ, bôi son trét phấn, hò hét, ban phúc, giáng họa cho được đông người ái mộ. Tín đồ càng đông thì bà càng phải thiêng… Và nếu bà Chúa Xứ không còn hợp thời trang nữa thì anh có thể đổi danh hiệu thành bà Ngũ Hành – Cửu Thiên Huyền Nữ, hoặc là cô hay cậu nào đó. Nước đời lắm chìm, nhiều nổi, chúng ta chỉ có thể đoán chắc một điều là, giữa lớp danh vọng, hư huyễn, phù hoa đó, anh chàng Bu sẽ chết dần, chết mòn, thể xác mệt mỏi, tinh thần điên đảo… Nếu trò chơi cứ tiếp tục thì chung cuộc anh sẽ vào nhà thương dành cho bệnh tâm thần.

Câu chuyện trên đây, tôi đã đau xót viết riêng mình, nói với em, cũng có nghĩa là tôi độc thoại cho chính mình, vì tôi không tin tưởng rằng một cuộc đối thoại được thực sự cảm thông khi mà chúng ta mỗi người đang ngóng về một hướng, mải miết đuổi bắt những lý tưởng tận đâu đâu….

Tôi chỉ muốn hỏi em, đã có những lúc nào em thấy mình giống hệt anh chàng Bu trên đây không? Riêng tôi, tôi còn nhớ rất rõ ràng, thưở bé thơ tôi rất là hồn nhiên, không rõ ràng mình là trai hay là gái, đẹp hay xấy, giàu hay nghèo, giỏi hay dở gì hết… Tôi sống thoải mái và vô tư như một chú gà non, thì bỗng nhiên, có lúc tôi nghe người chung quanh nhận xét rằng tôi không đẹp bằng chị tôi, không giàu bằng nhà hàng xóm, không giỏi bằng bạn bè chung quanh… và từ đó tôi dần dần bắt đầu cảm thấy thống khổ kịch liệt khi thấy sao mình tầm thường quá đỗi, không có một sở trường gì để tự “lăng xê” mình, làm nổi bật lên trước bàn dân thiên hạ. Rất nhiều đêm tôi niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, cầu mong sao cho mình được đẹp, được sang, được giỏi hơn thiên hạ. Mặt khác, tôi gắng thức khuya, dậy sớm, bỏ ngủ, quên ăn để học cho bằng bè bạn- những người hơn cả tôi cả tài lẫn sắc, để ít ra mình cũng chứng tỏ được các khả năng của mình rằng mình không phải là con “số không”.

Em ạ! Đó chỉ là một ví dụ, một phần rất nhỏ trong cuộc đời đủ thức phức tạp của chúng ta. Điều khổ tâm nhất của chúng ta hằng ngày không phải là chuyện sinh già bệnh chết – vì đó là một lý đương nhiên không ai tránh khỏi. Chúng ta thường khốn khổ bức rức vì cái bản ngã của mình, sao mà ta nhỏ nhoi tầm thường quá, không có tí ti nào khả ái, khả kính dưới mắt ta và người chung quanh hết. Những lúc đối mặt với chính mình, ta phải cay đắng nhận chân rằng: ta chỉ là một nhân vật quá mức tầm thường, một con số không to tướng. Thế là anh chàng Bu trong ta bắt đầu tham gia vào trò “lên đồng”. Từ con số không, tùy theo cơ hội, hoàn cảnh và nhu cầu của người ái mộ chung quanh và chúng ta sẽ thành một cái gì đó. Mỗi người đội một danh hiệu khác nhau, nhưng cùng giống nhau ở một điểm là: chối bỏ con người tầm thường chân thật của mình để sống với lớp áo của những nhân vật rất mực phù hoa và giả dối.

Và em ơi! Một điều kỳ thú là chỗ chúng ta lẩn trốn, sợ hãi, lại chính là chỗ mà các thiền sư tại ngộ: Lục Tổ há chẳng xác định một cách hung hồn rằng “bản lai vô nhất vật” đó sao? Dưới bất cứ lớp áo và nhãn hiệu nào, em và tôi đều phải công nhận rằng: Trong những phút giây chiếu soi nhìn trở lại mình, ta thấy mình quả là “vô nhất vật”, nghĩa là: ta – không – là – gì – cả. Ta không phải là bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành, cô hay cậu gì hết, không là gì hết, nhưng ta vẫn “thấy, nghe, hiểu, biết” rất rõ ràng. Cái khả năng “kiến văn giác tri” đó, chúng ta đều bình đẳng như nhau. Đây chính là chỗ mà Lục Tổ nói: “Đâu ngờ tánh mình bản lai thanh tịnh, đâu ngờ tánh mình vốn đầy đủ cả” đó em!

Khi anh chàng Bu không còn lên đồng nữa, không còn là ông nọ bà kia thì không phải là anh ta chết, mà anh ta chỉ mất: mất hết những gì giả dôi, không phải là mình thôi.

Nếu em thấy rằng “bà đồng” của mình còn hãy “thiêng” lắm và thà rằng em đội lốt, mang mặt nạ, chìu theo thị hiếu của bàn dân thiên hạ để được thờ phụng tung hô và được vô vàn quyền lợi phụ tùng khác thì em cứ tiếp tục. Không có ai, sẽ không có ai dám lên án chỉ trích em đâu! Vì lên án một bà đồng cũng có nghĩa là lên án luôn cả quần chúng đang ái mộ, và ai mà dại gì đứng ra chọc giận thiên hạ nhiều như thế. Em có thể yên tâm và tiếp tục.

Nhưng, nếu có hôm nào, quá mệt mỏi với cái trò chơi xốc nổi ấy, mặt nhìn tận mặt, soi ại lòng mình giữa cảnh hoang tàn của trà ôi, rượu nhat, hoa héo, hương phai; nhìn thấy người chung quanh cũng chán chường, mệt mỏi không kém mình, thì, em hãy thử một lần, làm sống lại con người năm xưa của chính mình, của anh chàng Bu khuân vác thử xem. Điều này đòi hỏi nơi em rất nhiều can đảm và hy sinh, vì em sẽ mất hết uy danh, quyền lợi, mất hết những người ái mộ cung nghinh, em sẽ bị xem thường, khinh rẻ; em sẽ phải hy sinh hết vàng song phấn sáp, danh lợi cùng uy quyền, để đi may thuê, cuốc mướn, phải đổ mồ hôi, nước mắt mới có ăn.

Thế nhân thường đi tìm sự thật, nhưng sự thật lại quá phũ phàng, không giống như ta hằng mơ tưởng, nên thà rằng, cứ nhắm tít mắt lại để còn có một thế gian hoa mộng, huyền ảo, mê ly.

Câu chuyện này xin dừng lại nơi đây, vì tôi bất chợt nhận ra rằng, dường như tôi đang lên một đồng xuất sắc hơn, hợp thời trang hơ… và thông thường, đôi khi ta ngỡ rằng mình đã thức dậy, đi ra khỏi cơn mơ, nhưng sau đó thật lâu ra mới vỡ lẽ ra rằng mình chỉ thay đổi tình tiết của giấc mơ mà thôi. Và điều làm chúng ta thấy mình đang lên đồng thật xuất sắc là khi có một hành động nào đó của ta bỗng dung có được nhiều người vỗ tay tán tụng; khi mà từ cái “không”, ta trở thành “có”, và cái “có” này ngày càng bành trướng nẩy nở ra. Chính những tràng pháo tay đã báo hại chúng ta không ít, nó xui ta cứ tiếp tục… chiêm bao, để được khen hoài, khen mãi, em có thấy như vậy không?

Hèn chi trong kinh Duy Ma Cật, Bồ Tát khuyên ta cứ làm việc đi, làm mọi việc để được lợi mình và lợi người, nhưng phải lam sao để cả “tam luân” đều “không tịch” nghĩa là không thấy có mình, có người và có pháp nữa, chỉ đem thân huyễn mà làm việc duyễn (dĩ huyễn thân tác huyễn sự) mà thôi. Các Ngài khôn quá, phải không?
Dầu tại bãi chiến trường thắng ngàn ngàn quân địch, tự thắng mình khó hơn chiến thắng ấy tối thượng.

7/25/2013

GIÁ TRỊ THẬT CỦA CUỘC SỐNG



Một ngày nọ,  người cha giàu có dẫn con trai đến một vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo. “Đây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình” – người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.
Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống ở đây, họ trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:
-  Chuyến đi như thế nào hả con?
-  Thật tuyệt với bố ạ!
-  Con đã thấy những người nghèo sống như thế nào rồi đấy!
-  Ồ vâng.
-  Thế con đã rút ra được điều gì từ chuyến đi này?
Đứa bé không ngần ngại trả lời:
-  Con thấy chúng ta có một con chó, họ có bốn. Nhà mình có một hồ bơi, họ lại có một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào vườn, họ lại có những ngôi sao lấp lánh vào đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, họ thì có cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, và họ có những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải mua thực phẩm còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở cho nhau. 
Đến đây người cha không nói gì cả.
-  Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi.
Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những thứ quá tầm tay. Cũng có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác. Điều đó phụ thuộc vào cánh nhìn, đánh giá và hoàn cảnh mỗi người. Xin đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì bạn chưa có mà bỏ quên điều bạn đang có, dù là chúng rất nhỏ nhoi.

6/03/2013

Những câu chuyện đọc để suy ngẫm - ÔNG GIÀ HỌ MÃ MUA NGỰA HAY LÀ MIỆNG THẾ GIAN

Lời mở đầu: Có bao giờ bạn bị ảnh hưởng bởi những lời nói ra nói vào của những người xung quanh mình chưa? Hãy tự thành thật với bản thân 1/2 phút trước khi đọc câu chuyện phía dưới nhé: 

ÔNG GIÀ HỌ MÃ MUA NGỰA HAY LÀ MIỆNG THẾ GIAN.

Nhà họ Mã ngày trước chuyên nghề nuôi dạy ngựa và bán ngựa. Có một dạo gia đình ông suy sụp vì con ông bị bệnh nặng, đã vét hết tiền trong nhà mà con ông vẫn không khỏi. Ông bán hết số ngựa nuôi để thang thuốc cho con. Con ông sống được. Từ đó ông bắt đầu dành dụm, tằn tiện được một số tiền.

Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con:

- Phụ thân xem biết nó rất quý, dù hơi gầy, thuộc giống Hoàng Tuyết Phiêu của người Khương. Nhà ta gây được giống này sẽ làm giàu không mấy hồi. Ngặt vì xa ngót ngày đường, qua đèo truông e có cướp, nên cha con ta cùng đi.

Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngả giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ.

Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói:

- Mã lão! Ông là người nuôi ngựa, sao không biết thương ngựa? Con ngựa gầy thế kia, còn cha con ông cọp ăn bảy ngày không hết, nỡ nào cả hai lại đè trên mình nó?

Ông Mã nói với con mình:

- Họ nói phải đấy con ạ! Vậy cha nhường cho con cưỡi. Cha cầm cương cho.

Thế là một mình Mã công tử ngồi ngựa, ông Mã đi bộ theo. Họ yên tâm đi xóm nhà khác, bây giờ trời đã khá trưa, những người ngồi mát trên đường thấy cảnh cha con họ Mã như vậy, họ kéo ra đón đầu ngựa, xỉ vả người con:

- Ai dạy công tử về cách hiếu đạo như thế? Con thì ngồi ngựa kênh kiệu, để cha chạy bộ theo đổ mồ hôi! Qua cánh đồng kia có học hiệu Khổng Môn, chắc họ đánh công tử trào máu ra mất!

Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha:

- Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt.

Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói:

- Mã lão bá! Lão bá lâu nay mạnh giỏi chứ? Nghe nói lệnh lang lâu nay bệnh thập tử nhất sinh, nay mới vừa hơi bình phục lão bá để lệnh lang nhọc nhoài cho đành.

Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm:

- Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy.

Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi:

- Đúng là cha con một lão vô học. Đây là giống Hoàng Tuyết Phiêu, một loại thiên lý mã, mua về để cưỡi hoặc làm giống, nào phải mua về để thờ, sao có ngựa lại không cưỡi?

Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con:

- Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong!

Hai người dắt đi một đoạn cho khuất mắt mọi người, rồi tháo cương, cởi yên, đánh một roi, ngựa dong tuốt vào rừng mất dạng. Về đến nhà, bà cụ nghe đón đầu ngõ. Ông cụ thuật lại mọi chuyện. Bà cụ nghe qua đấm vào đầu bình bịch, vừa khóc vừa nói:

- Ngu sao là ngu! Có bao nhiêu vét đi mua ngựa, rồi thả ngựa đi! Xưa nay miệng lưỡi thế gian. Việc mình mình cứ làm, chiều ý, nghe lời họ làm gì? Rồi đây lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà cưới vợ cho con? Ngu ơi là ngu! ...

Lời bình luận cá nhân tôi: Cái này làm tôi liên tưởng đến câu "Chín người mười ý". Một cách sống để đẹp lòng mọi người nhất, theo tôi, là làm theo ý mình và cho mọi người biết rõ về tính cách và suy nghĩ của mình. (Tất nhiên, nhớ là một cách khéo léo nhé). :)